Kỹ thuật trồng cây mía đạt năng xuất cao

Giới thiệu các giống lúa

1. Giống mía chín sớm (10 tháng):Giống mía VN 84-4137, thân trung bình, vỏ màu xanh vàng ẩn tím ,năng suất khá, chử đường CCS đạt 10-11% . Giống mía VN 84-422: thân to trung bình, vỏ có màu xanh ẩn vàng, năng suất khá, chử đường CCS đạt trên 12%.

2. Giống mía chín trung bình: (11-12 tháng)

a) Giống mía ROC 10

– Giống to trung bình, vỏ có màu vàng lục.

– Năng suất cao, chử đường CCS đạt>10%

b) Giống mía ROC 16

– Thân to thẳng đứng, vỏ có màu xanh ẩn tím

– Năng suất cao, chử đường CCS đạt 12-13%

c) Giống mía Quế đường 11

– Thân trung bình nhỏ, vỏ có màu tím mốc

– Năng suất cao, chử đường khá.

3. Giống mía chín muộn: (13-14 tháng)

a) Giống mía R 570

– Thân to, vỏ có màu xanh vàng, ít trỗ cờ

– Năng suất cao, chử đường CCS đạt 10-11%

b) Giống mía K 84-200

– Thân to thẳng đứng, vỏ có màu xanh vàng

– Năng suất cao, chử đường CCS đạt trên 10%

– Các giống trên đều tái sinh mạnh và lưu gốc tốt.

1. Thời vụ, làm đất, chọn giống:

Do hầu hết diện tích mía ở nước ta trồng nhờ nước trời nên chỉ có 2 vụ trồng đó là đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Vụ đầu mùa mưa trồng trong tháng 4-5 để sau khi mía nảy mầm sẽ có đủ nước cho mía sinh trưởng, phát triển, kịp thu hoạch vào tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Cuối mùa mưa nên trồng trong tháng 9-11 tùy theo vùng kết thúc sớm hay muộn. Vụ trồng này giúp mía kết thúc nảy mầm bắt đầu đẻ nhánh khi sang mùa khô và chịu đựng được khô hạn để đầu mùa mưa sẽ vươn cao nhanh, đảm bảo thu hoạch cho vụ ép sớm.

Mía là cây không kén đất nên có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau như: đất phù sa, đất xám, đất đỏ, đất cát và cả đất phèn. Đất ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên thường cho mía có chữ đường cao hơn so với vùng ĐBSCL.

Cày đất là khâu quan trọng giúp bộ rễ mía ăn sâu, chịu hạn, chống đổ và tăng khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây. Cày lần đầu cần sâu khoảng 40-50cm, bừa kỹ, dọn sạch cỏ rác. Bón 1-1,5 tấn vôi bột/ha trước khi bừa lần cuối. Khoảng cách hàng trồng tùy theo điều kiện chăm sóc. Nếu xới bằng máy khoảng cách 1-1,2m, nếu chăm sóc thủ công có thể trồng dày hơn. Lượng giống trồng từ 8-10 tấn/ha tùy theo loại giống và chất lượng giống.

Giống mía có vai trò rất quan trọng trong thâm canh mía. Để có năng suất đường cao cần chọn những giống có chữ đường cao, năng suất cao như: ROC 25, ROC 27, ROC 16, MEX… Mía có thể trồng bằng hom ngọn hoặc toàn bộ cây tuy nhiên không nên trồng cây quá già mà chọn cây khoảng 6-8 tháng tuổi, sạch bệnh. Ruộng làm giống nên tưới, chăm sóc kỹ, bón phân đầy đủ và cân đối để có hom giống tốt, tỷ lệ nảy mầm cao.

2- Bón phân cho mía:

Cây mía có nhu cầu kali cao nhất sau đó đến đạm và lân, ngoài ra, mía còn có nhu cầu một số nguyên tố với lượng ít hơn, gọi là các chất trung và vi lượng (TE). Các nguyên tố trung và vi lượng có ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây mía là magiê, canxi, kẽm, bo. Khi cung cấp không đủ dinh dưỡng, cây mía sẽ có các triệu chứng như sau:

– Thiếu đạm: Lá non nhỏ, ngắn, xanh lợt, lá già vàng, nếu thiếu nặng, lá bị chết khô từ chóp lá vào giữa gân chính, hoặc vàng hay khô một bên lá, cây mọc yếu đẻ nhánh ít, thân nhỏ, thấp… năng suất kém.

– Thiếu lân: cây con có lá màu xanh dương ửng tím, thiếu nặng có những vết tím dọc trên lá và bẹ lá. Ở cây mía trưởng thành, thiếu lân làm cho lá ngắn, phiến lá hẹp, khả năng chịu hạn kém. Thiếu nặng mía đẻ nhánh kém, những nhánh mía đẻ muộn thường bị chết, cây yếu, lóng nhỏ và ngắn, năng suất thấp.

– Thiếu kali: mặt trên gân chính của lá xuất hiện những vệt đỏ, nếu thiếu nặng lá bị khô từ chóp lá trở xuống, mép lá trở vào, thân cây nhỏ, yếu, dễ bị bệnh, năng suất và chữ đường đều thấp.

– Thiếu magiê: lá có những vệt sọc trắng sau lan rộng làm mất màu phần thịt lá, gân lá vẫn còn xanh, năng suất thấp.

– Thiếu canxi: cây thấp, dễ bị nứt vỏ và đổ ngã, năng suất thấp.

– Thiếu sắt: hàm lượng đạm trong lá giảm trong khi lân, kali, canxi và magiê tăng, cây kém phát triển, năng suất và chất lượng thấp.

– Thiếu kẽm: cây còi cọc, lá mọc sít nhau, cây tù ngọn. Thiếu kẽm thường dẫn tới hàm lượng đạm và magiê trong lá giảm, năng suất thấp.

– Thiếu bo: cây kém phát triển, hàm lượng kali trong lá tăng và magiê giảm.

– Thiếu đồng: cây kém phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh kém. Thiếu đồng cũng dẫn đến hàm lượng magiê trong lá thấp, năng suất và chữ đường thấp.

– Thiếu mangan: cây còi cọc, hàm lượng đạm trong lá giảm. Khi có triệu chứng thiếu dinh dưỡng cũng là lúc cây mía đã thiếu nghiêm trọng và ảnh hưởng nhiều đến năng suất mía cây cũng như chữ đường. Để tránh tình trạng này biện pháp chẩn đoán dinh dưỡng qua lá để biết trước tình trạng dinh dưỡng trong lá và đề ra biện pháp khắc phục rất cần thiết

3- Chăm sóc:

Sau khi trồng 10-15 ngày nếu gặp mưa nên xới phá váng. Làm cỏ lần 1 kết hợp với dặm, khi mía được 4-5 lá. Làm cỏ lần 2 và bón thúc đẻ nhánh, dùng cuốc hoặc trâu bò cày sâu 10-15cm vun nhẹ vào gốc. Thúc vươn lóng, kết hợp với vun gốc giúp mía phát triển thuận lợi, chống đổ ngã.

Khi mía có lóng và cao trên 1m, nếu có chồi mới (mía mầm hoặc chồi nước) nên nhổ bỏ vì đây là những chồi vô hiệu sẽ cạnh tranh dinh dưỡng của những thân chính làm giảm chữ đường và là nơi trú ngụ và phát sinh sâu bệnh. Đối với mía gốc, sau khi thu hoạch cần tổng vệ sinh đồng ruộng, vùi lấp hoặc đốt sạch lá khô để diệt mầm sâu bệnh, sau đó dùng cuốc thật sắc xén lại các gốc còn cao và các chồi mầm còn sót lại.

Dùng cày hoặc cuốc hai bên hàng mía để bón 20-30 tấn hữu cơ/ha hoặc 2-3 tấn lân hữu cơ Đầu Trâu + 200-250kg Đầu Trâu TE-Mía 1/ha, sau đó lấp kín gốc, giữ cho mía nẩy mầm, các giai đoạn tiếp theo chúng ta chăm sóc như mía tơ.

4- Phòng trừ sâu bệnh:

Có thể tiến hành bóc lá để hạn chế sâu bệnh, rệp, chuột và hạn chế ra rễ trên thân. Một số sâu bệnh chính thường gặp như: bệnh thối đỏ, bệnh than đen, sâu đục thân, sâu hại gốc, rệp trắng… Phải thường xuyên theo dõi trên ruộng mía để kịp thời phòng trừ từng loại sâu bệnh và sử dụng thuốc cho thích hợp.